Vải thiều Tây Nguyên: ‘Trái ngọt’ trên vùng đất đỏ bazan
Kinh tế nông thôn và miền núi Thứ hai, 26/05/2025 - 20:23
Kết nối đưa nông sản, đặc sản Tây Nguyên về TP. Hồ Chí Minh Xúc tiến thương mại mở rộng không gian cho nông sản Tây Nguyên Niên vụ 2025: Sản lượng vải thiều tăng khoảng 30% |
Từ thử nghiệm đến cây trồng chủ lực
Những ngày cuối tháng 5, trên những triền đồi đỏ bazan tại xã Ea Sar (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk), từng chùm vải thiều chín đỏ rực đã khiến cả vùng quê như bừng lên sức sống mới. Không còn là “vùng đất cằn” với các loại hoa màu kém hiệu quả, Ea Sar đang dần trở thành một trong những “thủ phủ" vải thiều của Tây Nguyên.
![]() |
Cây vải đang góp phần tăng thu nhập cho đồng bào Tây Nguyên. Ảnh: Lê Hường |
Tại Ea Sar, nhiều năm qua, cây vải đã góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân địa phương. Nhiều hộ không chỉ thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, Ít ai biết rằng, cách đây hơn một thập kỷ, Ea Sar vẫn chủ yếu trồng cà phê, bắp, khoai, song do đặc tính đất cát pha và khí hậu khô hạn, hiệu quả canh tác không cao. Năm 2012, một số hộ tiên phong đã mang giống vải thiều từ Bắc Giang vào trồng thử và nhận thấy cây vải sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, cho năng suất ổn định.
Đến nay, toàn xã Ea Sar đã có 400 ha vải, sản lượng năm 2025 dự kiến đạt 5.000 tấn. Cây vải đã thực sự trở thành cây trồng chủ lực, không chỉ mang lại thu nhập cao mà còn tạo công ăn việc làm ổn định cho lao động địa phương.
Anh Lê Văn Thưởng (31 tuổi) ở thôn 5, xã Ea Sar, một trong những người đi đầu trong việc trồng vải ở xã Ea Sar, khi sở hũu 15 ha vải u hồng. Theo anh Thưởng, vải ở Ea Sar năng suất rất tốt, ít sâu bệnh và đặc biệt là cho thu hoạch sớm hơn các vùng khác. Cây vải đang dần khẳng định vị trí chủ lực ở xã Ea Sar, giúp nhiều hộ nông dân thu lãi từ 200 triệu đồng đến cả tỷ đồng mỗi vụ.
Với hiệu quả kinh tế cao, huyện Ea Kar đang tiên phong trong việc xây dựng chuỗi giá trị cho cây vải, toàn huyện hiện có hơn 1.000 ha vải thiều, trong đó có 1 hợp tác xã cung ứng 45.000 cây giống/năm, 1 hợp tác xã và 2 tổ hợp tác chuyên trồng vải. Đã có 4 mã số vùng trồng cho 48,5 ha và hơn 100 ha sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.
Bên cạnh đó, huyện Ea Kar cũng đề xuất các ngân hàng tạo điều kiện cho người dân vay vốn, phát triển vùng nguyên liệu bền vững. Đồng thời, tổ chức các hội thảo kết nối thương mại giữa các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh với vùng trồng vải để đảm bảo đầu ra ổn định.
Cùng với đó, chính quyền huyện Ea Kar đang khuyến khích các hợp tác xã đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, quảng bá trên các nền tảng số. Đây là hướng đi cần thiết để đưa quả vải đến gần hơn với người tiêu dùng trong và ngoài nước. Đồng thời, mang lại “trái ngọt”, mở ra triển vọng làm giàu cho những hộ nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây.
![]() |
Trái vải Tây Nguyên thường chín sớm, vị thanh ngọt. Ảnh: Mai Cường |
Nâng cao chất lượng, phát triển thương hiệu
Tại Đắk Lắk, không chỉ huyện Ea Kar, nhiều huyện khác như Krông Pắk, Krông Năng, M’Đrắc… cũng đang từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng sang trồng vải. Hiện, toàn tỉnh Đắk Lắk có 3.000 ha vải, trong đó có hơn 2.000 ha cho thu hoạch, với tổng sản lượng ước đạt hơn 21.000 tấn. Các giống vải chủ lực gồm u hồng, phúc hòa, hồng quyết, bình khê…
Nhờ lợi thế vượt trội về điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng đặc trưng, vùng đất đỏ bazan màu mỡ đã giúp vải thiều Đắk Lắk cho chất lượng quả ngọt đậm, giòn, thơm và màu sắc bắt mắt. Đặc biệt, với đặc tính “chín sớm” và vị ngọt thanh, vải thiều Đắk Lắk ngày càng được ưa chuộng và có giá trị thương mại cao ở nhiều thị trường lớn như TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương… và bước đầu xuất khẩu.
Tuy nhiên, để cây vải thực sự trở thành “cây làm giàu” bền vững, vẫn còn đó nhiều khó khăn, thách thức. Một trong những “nút thắt” đối với vải thiều ở Đắk Lắk là việc chế biến sâu còn hạn chế, sản phẩm chủ yếu bán tươi, giá cả phụ thuộc vào thương lái. Trong đó, hầu hết các vườn vải trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn canh tác theo hướng nhỏ lẻ, chưa có sự đồng đều về chất lượng.
Do vậy, theo các chuyên gia nông nghiệp, để phát triển vải thiều Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung một cách bền vững và có khả năng cạnh tranh trên thị trường cần đồng bộ hóa từ khâu canh tác, thu hái, bảo quản đến tiêu thụ. Đặc biệt, cần thúc đẩy, chú trọng xây dựng liên kết, từng bước xây dựng thương hiệu cho trái vải.
Trong đó, việc mở rộng diện tích trồng theo quy hoạch cần song hành với áp dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến như VietGAP, GlobalGAP hoặc canh tác hữu cơ. Điều này không chỉ đảm bảo chất lượng quả đồng đều mà còn đáp ứng được xu hướng tiêu dùng của thị trường, cũng như các tiêu chuẩn của những thị trường khó tính.
![]() |
Cần nâng cao chất lượng và thương hiệu cho vải thiều Tây Nguyên. Ảnh: TTXVN |
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng khuyến nghị địa phương và doanh nghiệp đẩy mạnh việc cấp mã số vùng trồng, giúp truy xuất nguồn gốc rõ ràng, nâng cao uy tín của sản phẩm. Như, vải thiều Tây Nguyên nên gắn với chứng nhận OCOP và các chương trình xây dựng thương hiệu địa phương, nhằm lan tỏa hình ảnh, cũng như tạo giá trị gia tăng cho trái vải.
Một giải pháp quan trọng khác là phát triển công nghiệp chế biến. Hiện nay, vải thiều chủ yếu bán tươi nên tiềm ẩn rủi ro về biến động giá cả, phụ thuộc vào thương lái. Vì vậy, cần đầu tư chế biến sâu như sấy khô, ép nước, làm mứt, trà… sẽ giúp đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị kinh tế và giải quyết bài toán “được mùa rớt giá”. Ngoài ra, việc đẩy mạnh quảng bá vải thiều Tây Nguyên qua các kênh như hội chợ, sàn thương mại điện tử là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, để tiếp tục đẩy cây vải thành cây trồng chủ lực giúp đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên làm giàu và nâng tầm nông sản Việt trên trường quốc tế. Điều cần thiết hiện nay là sự phối hợp chặt chẽ giữa người trồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để phát triển một thương hiệu vải thiều Tây Nguyên bền vững, hiệu quả và giàu bản sắc.
Vải thiều Tây Nguyên đang dần trở thành cây trồng chủ lực giúp đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên làm giàu và nâng tầm nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, điều cần thiết hiện nay là sự phối hợp chặt chẽ giữa người trồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để phát triển thương hiệu vải thiều Tây Nguyên bền vững, hiệu quả. |
Tin mới nhất

Đà Nẵng: Hoàn thành mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2021-2025

Hà Giang: Tạo sinh kế từ mạch nguồn văn hoá Dao đỏ

Longform | Xây dựng thương hiệu: ‘Chìa khóa vàng’ cho nông sản vùng cao

Chè Shan, chè Thái: Chuyện của núi, của người và khát vọng vươn xa

Phú Thọ: Từ làng nghề truyền thống đến sản phẩm OCOP
Tin cùng chuyên mục

Điện Biên: Câu chuyện thoát nghèo từ OCOP và làng nghề

Công nghệ cao giúp nông dân Bình Thuận thoát nghèo bền vững

OCOP: Cơ hội khởi nghiệp cho người trẻ vùng nông thôn

Trà hoa vàng Ba Chẽ: Nâng tầm thương hiệu ‘vàng xanh’

Longform | Thức quà của đại ngàn và giấc mơ chạm vào trái tim người tiêu dùng thành phố

Đắk Nông: Gần 130 tỷ đồng hỗ trợ giảm nghèo năm 2025

Homestay Nặm Đăm: Sinh kế bền vững từ bản sắc văn hóa

Tặng 10.000 cây mắc ca cho người dân nghèo Đắk Nông

Sâm Ngọc Linh thành di sản: Đòn bẩy đưa ‘quốc bảo’ vươn xa

Vùng cao Xín Mần dệt giấc mơ nông nghiệp xanh

Người Cơ Tu thoát nghèo nhờ chè dây Ra Zéh

Tạo sinh kế, giảm nghèo bền vững cho người dân Kon Tum

Chè Tân Thành và giấc mơ ‘thoát nghèo’ cho người vùng cao

“Vàng xanh” giúp đồng bào Tủa Chùa thoát nghèo bền vững

Dệt lanh - từ thủ công truyền thống đến chuỗi giá trị hàng hoá

Fìn Hò Trà: Nâng tầm vị chè Shan tuyết nơi rẻo cao

Dấu ấn người trẻ trên hành trình đổi mới nông thôn

Quế Bình Liêu: ‘Vàng xanh’ giúp bà con dân tộc làm giàu

Cao Bằng: Nghề xưa ‘mở lối’ du lịch cộng đồng Hoài Khao
