![]() |
Dù khó nhưng xây dựng thương hiệu vẫn được nhìn nhận là giải pháp tốt giúp nông sản vùng cao lan toả rộng ra thị trường, từ đó giúp bà con tăng thu nhập, giảm nghèo bền vững. |
|
Sản phẩm của bà con dân tộc thiểu số và miền núi luôn có sức hấp dẫn đặc biệt với người tiêu dùng bởi tính lạ và hiếm. Nhưng những năm gần đây, nhờ sự bùng nổ của các kênh mạng xã hội và thương mại điện tử, sản phẩm của bà con ở các vùng miền được người tiêu dùng, nhất là ở khu vực thành thị, đồng bằng biết đến nhiều hơn. Mật ong bạc hà của Hà Giang là một điển hình. Giống ong mà đồng bào dân tộc Mông ở Hà Giang dùng nuôi để khai thác mật hoa cây bạc hà trong tự nhiên là giống ong bản địa giúp sản phẩm tạo ra thơm, ngon, vị đậm đà rất đặc trưng và ngày càng được người tiêu dùng đón nhận. Với giá bán vài trăm nghìn đồng mỗi lít, nghề nuôi ong khai thác phấn hoa bạc hà đã góp phần nâng cao thu nhập, đẩy nhanh công cuộc xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc tại 4 huyện cao nguyên đá Đồng Văn (gồm Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh và Quản Bạ). |
![]() |
Tại Yên Bái, miến đao Giới Phiên là sản vật được nhiều người tiêu dùng biết đến. Để sản xuất loại sản phẩm này, bà con địa phương sử dụng bột dong riềng nguyên chất không pha trộn với các loại bột khác, không sử dụng hóa chất, kéo sợi nhỏ, miến chỉ phơi một nắng trên các phên tre. Nhờ đó, sợi miến khi nấu lên rất dẻo, mềm, dai, thơm, đặc biệt không bị dính, nát. Hay như với cà phê đặc sản Bù Đốp của tỉnh Bình Phước, là giống cà phê cổ, năng suất thấp nhưng khả năng chịu hạn cao, hậu vị đậm, sâu và rất thơm, sản phẩm này đang được ưa chuộng trên thị trường. Với giá bán chênh lệch 10-20% so với cà phê thông thường, cà phê đặc sản Bù Đốp đang giúp bà con dân tộc S’tiêng, Tày, Nùng… trên vùng đất đỏ bazan Bù Đốp cải thiện dần sinh kế, thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Nói về “chất” của cà phê Bù Đốp, anh Trần Xuân Ngọc - Giám đốc Hợp tác xã cà phê nguyên chất Bù Đốp, tỉnh Bình Phước, chia sẻ: Tại Bù Đốp, bà con dân tộc thiểu số vẫn giữ lối canh tác truyền thống, dùng phân bón hữu cơ, do đó sản lượng đạt rất thấp chỉ khoảng 3 tấn/ha, bằng một nửa so với những giống cà phê ghép đang được trồng trên địa bàn. Nhưng bù lại, cà phê có mùi rất thơm, hương vị đậm, kéo dài và sâu. Hơn nữa, cà phê của Hợp tác xã cà phê nguyên chất Bù Đốp được chế biến theo phương pháp chế biến ướt và chế biến khô. Giữ nguyên được tinh hoa của đất trời, nắng gió cao nguyên trong từng hạt cà phê, cùng đôi bàn tay dày dạn kinh nghiệm của bà con tạo nên hương vị rất riêng cho cà phê Bù Đốp. |
![]() |
|
Có thể thấy, sản vật ở khu vực miền núi rất nhiều, hiện một số tỉnh đã khai thác lợi thế này gắn kết với du lịch để phát triển kinh tế địa phương, trong đó, tỉnh Sơn La là một điển hình. Mận Sơn La nổi tiếng cả nước, tận dụng điều này, chính quyền và nhân dân tỉnh đã phối hợp với các đơn vị tổ chức truyền thông, quảng bá rộng rãi về nét đẹp, sự khác biệt và biến mùa hoa mận, mùa mận chín trở thành mùa du lịch thu hút du khách khắp nơi trên cả nước. Từ đó, giúp người dân địa phương có thu hoạch kép từ tiêu thụ mận và phí dịch vụ du lịch. Dù đặc sắc là vậy nhưng không phải địa phương nào cũng tận dụng được lợi thế từ nguồn sản vật của bà con vùng dân tộc thiểu số và còn rất nhiều sản phẩm đặc sắc, độc đáo chưa được biết đến rộng rãi. Nguyên do, việc sản xuất, canh tác của bà con còn lạc hậu, theo tập quán truyền thống khiến sản lượng thấp, mẫu mã bao bì không hấp dẫn nên kém thu hút được người tiêu dùng. Và một điểm rất quan trọng nữa là chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm. |
|
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong, nhận định: Xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa yếu hơn rõ rệt. Điều này thể hiện ở việc chưa có thương hiệu được nhiều quan tâm và có giá trị cao; cùng đó việc xây dựng thương hiệu dù có được thực hiện cũng tùy hứng, chưa bài bản. Lý giải về nguyên nhân của hiện trạng chưa xây dựng được thương hiệu cũng như thương hiệu mạnh cho sản phẩm ở khu vực miền núi, không chỉ chuyên gia Nguyễn Minh Phong, nhiều chuyên gia cho rằng là do sản phẩm của bà con dân tộc thiểu số tính hàng hóa chưa cao, chưa tạo ra nguồn cung ổn định và mới chỉ phân phối ở địa phương. |
![]() |
Bà Trịnh Thị Thanh Thủy - nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, Bộ Công Thương, cũng cho biết: Nguyên nhân chủ yếu vẫn là về phía người sản xuất ra sản phẩm, bà con chưa nhận thức đúng và đủ về tầm quan trọng của xây dựng thương hiệu. Để xây dựng thương hiệu cần có điều kiện gì, đâu là cơ quan có thể hỗ trợ, điều kiện và nguồn lực như thế nào để xây dựng thương hiệu là những câu hỏi lớn với bà con. Từ kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu và khảo sát thực tế, bà Trịnh Thị Thanh Thuỷ cũng phân tích: Để xây dựng thương hiệu cho sản phẩm miền núi, trước hết bà con phải đảm bảo sản xuất theo hướng hàng hoá, nghĩa là sản lượng đủ lớn để có được nguồn cung ổn định. Điều này rất quan trọng nhằm đảm bảo tính liên tục trong hiện diện của sản phẩm tại hệ thống phân phối và với người tiêu dùng. Bên cạnh đó, sản xuất của bà con cũng cần hướng đến tiêu chí xanh và bền vững để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Muốn làm được điều này, các chuyên gia kinh tế cho rằng bên cạnh nỗ lực của bà con còn cần sự hỗ trợ của các sở, ngành trong công tác tuyên truyền, xúc tiến quảng bá và kết nối đầu ra cho sản phẩm. Đồng thời, hỗ trợ tư vấn về kỹ thuật sản xuất, chế biến; phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng logistics; quy hoạch vùng trồng. Cuối cùng là hỗ trợ về mặt tài chính thông qua việc giúp bà con tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi cho sản xuất. |
|
Và hơn hết, câu chuyện đằng sau sản phẩm phải chứa đựng và làm nổi bật được nét văn hoá truyền thống của vùng đất và con người nơi đó, đồng thời gắn với xu thế phát triển xanh, phát triển bền vững. Về phía doanh nghiệp, hợp tác xã là những chủ thể sản xuất, bên cạnh sự trợ sức của các cấp, ngành thì bà con nên coi đây là một nhiệm vụ quan trọng để đồng hành cùng các cơ quan chức năng thực hiện hoạt động, thủ tục cần thiết nhằm xây dựng, đăng ký và bảo vệ thương hiệu. Ngoài ra, cơ quan chức năng như Sở Công Thương, Trung tâm Xúc tiến thương mại tại địa phương xây dựng thông tin liên quan tới thương hiệu, quảng bá trên các phương tiện truyền thông, kết nối với mạng lưới quốc gia để lan tỏa mạnh mẽ hơn. Những thương hiệu này cần được thổi hồn, mô tả với nhiều thông tin hấp dẫn, thuyết phục để tạo ra niềm tin, sự quan tâm và ra quyết định lựa chọn của người tiêu dùng. Các bên liên quan cũng nên chuẩn bị kịch bản cho các tranh chấp về vi phạm quyền sở hữu trí tuệ hay quyền thương hiệu vừa để tự bảo vệ khi xảy ra tranh chấp, đồng thời tránh bị làm nhái hoặc lợi dụng làm mất hình ảnh thương hiệu. Sản vật của bà con dân tộc thiểu số không chỉ là những sản phẩm được kết tinh từ đất đai, thổ nhưỡng mà còn từ bề dày văn hoá, tập quán sinh hoạt được tích luỹ qua nhiều năm, nhiều thế hệ. Xây dựng và lan toả thương hiệu cho những sản phẩm này không chỉ giúp tạo nên tính hàng hoá cho sản phẩm, giúp bà con tăng thu nhập, tiến tới thoát nghèo bền vững. Và quan trọng hơn là chung tay tạo nên hình ảnh đất nước Việt Nam đa sắc, đa tầng văn hoá và trở thành điểm đến gây thương nhớ cho du khách. |
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong: Nên chăng trong Chương trình thương hiệu Quốc gia Việt Nam có một chuyên đề riêng cho xây dựng thương hiệu hàng hoá khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa. Chuyên đề này cần có tiêu chí, quy trình đơn giản và phù hợp với đặc thù của khu vực. Có như vậy mới có thể thấy sản vật của bà con dân tộc thiểu số xướng danh thương hiệu quốc gia. |
Hải Linh Ảnh: Cấn Dũng - Đồ họa: Ngọc Lan |